Khai quát lịch sử hình thành di tích lịch sử Đền thờ Tiến sỹ Doãn Khuê xã Nghĩa Thành, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định
I. Khái quát hình thành về Nghĩa Thành và di
tích lịch sử Đền thờ tiến sỹ Doãn Khuê xã Nghĩa Thành, huyện Nghĩa Hưng, Tỉnh
Nam Định
1. Lịch sử hình thành, phát triển của xã
Nghĩa Thành.
Lịch sử làng xã, con người của quê hương
Nghĩa Thành đến nay (2023) đã trải qua 169 năm hình thành và phát triển. Xưa xã còn có
tên là Thư Điền, do Đốc học kiêm Doanh điền sứ Tỉnh Nam Định là Tiến sĩ Doãn
Khuê tổ chức khai hoang lấn biển lập nên. Khi thực dân Pháp chiếm Bắc kỳ lần thứ
nhất (1873) Doãn Khuê cùng các con là Doãn Chi, Doãn Vị lập nên đội nghĩa quân
chống Pháp mà nòng cốt là con em Nghĩa Thành. Ban đầu khi mới lập làng xã năm
1854, vùng đất Nghĩa Thành (lúc đó mới có một làng đầu tiên là Thư Điền) thuộc
tổng Sĩ Lâm huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định nhà Nguyễn. Tổng Sĩ Lâm
lúc đó cũng mới được thành lập từ trại Sĩ Lâm, vùng đất hoang của Phạm Văn Nghị.
Ngày nay, đất Tổng Sĩ Lâm thuộc phần đất của xã Nghĩa Thành, Nghĩa Lâm (trung tâm trại Sĩ Lâm), Nghĩa Hùng, Nghĩa Hải
của huyện Nghĩa Hưng.
1.1. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên
Ranh
giới xã Nghĩa Thành về phía Bắc giáp thị trấn Quỹ Nhất (nguyên trước là xã Nghĩa Hòa), phía Tây giáp xã Nghĩa Lâm , phía Nam và Đông Nam giáp xã Nghĩa Lợi, phía Đông giáp xã Nghĩa
Tân. Mem theo ranh giới phía đông với Nghĩa Tân, xã
Nghĩa Thành có đường tỉnh lộ 490 chạy qua sang xã Nghĩa Lợi.
Xã Nhĩa Thành gồm 3 thôn: Thư Điền, Chỉ
Thiện và Tây Thành, trong đó thôn Chỉ Thiện là một làng theo đạo Công
giáo (giáo xứ Chỉ Thiện thuộc hạt Quỹ Nhất giáo phận Bùi Chu.
1.2. Điều kiện kinh tế - văn hoá - xã hội
Những năm gần đây, xã Nghĩa Thành (Nghĩa Hưng)
đẩy mạnh phong trào chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong sản xuất lúa, xã đã tổ
chức cấy khảo nghiệm và chọn được các giống lúa lai mới như TH 3-3, Nhị ưu 838,
D.ưu 252... có giá trị kinh tế, tiềm năng năng suất cao, khả năng chống chịu
sâu bệnh tốt, phù hợp với điều kiện đồng đất của địa phương, đồng thời chỉ đạo
HTX hướng dẫn xã viên thực hiện đúng quy trình gieo cấy, theo dõi, phòng trừ
kịp thời các loại sâu, bệnh hại lúa. Cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, xã Nghĩa Thành
còn khuyến khích các hộ phát triển CN-TTCN, đưa ngành nghề phụ về địa phương.
Xã Nghĩa Thành (Nghĩa Hưng) là vùng quê thuần nông, đời sống
kinh tế của người dân còn nhiều khó khăn nhưng những năm qua cán bộ, nhân dân
trong xã đã đoàn kết tích cực xây dựng đời sống văn hóa. Hằng năm, qua bình xét
toàn xã có 92% số gia đình đạt tiêu chuẩn “Gia đình văn hóa”; cơ quan Đảng ủy,
UBND xã, 5 trường học, trạm y tế xã đều được công nhận “Đơn vị có nếp sống văn hóa”.
Sau nhiều năm triển khai phong trào xây dựng đời sống văn hóa
cơ sở, người dân xã Nghĩa Thành đã từng bước xây dựng nếp sống có văn hóa trong
nhân dân. Người dân trong xã luôn đoàn kết, chấp hành nghiêm các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, phát triển các mặt giáo dục và đào tạo, khuyến
học khuyến tài, vệ sinh môi trường nông thôn, chăm sóc sức khỏe, bảo đảm ANTT,
cùng nhau xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
2. Đôi
nét về đền thờ Doãn Khuê
2.1. Vị trí địa lý, lịch sử hình thành
Từ Nam Định qua cầu Đò Quan theo
đường 55 tới nông trường Rạng Đông rẽ phải khoảng 3km là tới đền thờ Tiến sĩ
Doãn Khuê thuộc xã Nghĩa Thành, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.
Người có công đầu tiên cùng với các sĩ phu yêu nước khởi xướng
mộ dân, khai hoang, lập ấp là cụ Đệ Tam Giáp Đồng tiến sỹ xuất thân Doãn Khuê.
Doãn Khuê tự là Bảo Quang sinh năm Quý Dậu (1813) tại làng Song Lãng, huyện Vũ
Thư, tỉnh Thái Bình. Vốn là người có tư chất thông minh từ nhỏ, được sự giúp đỡ
của thầy dạy, khoa thi Đinh Dậu (1837) khi mới 24 tuổi Doãn Khuê đã đỗ cử nhân.
Ngay năm sau khoa Mậu Tuất (1838) ông vào Huế dự kỳ thi hội. Kết quả kỳ thi
không phụ tấm lòng của thầy, Doãn Khuê đỗ đệ tam giáp tiến sỹ xuất thân (đứng
thứ tám). Cuộc đời, sự nghiệp của ông là tấm gương sáng cho đời sau về tinh thần
yêu nước, thương dân, chăm lo cho tiền đồ dân tộc. Cả cuộc đời ông chuyên lo
hành xử với việc đánh Pháp, đào tạo nhân tài, thau chua rửa mặn, cải tạo đồng đất
ven biển khi làm Doanh điền xứ.
Tôn vinh bậc sĩ phu chân chính của thời đại là
việc làm hợp với truyền thống, với đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc,
chính vì vậy năm 1880, nhân dân xã Nghĩa Thành lập Đền thờ để tỏ lòng ngưỡng mộ
và đời đời ghi nhớ, biết ơn công lao đức độ của ông với đất nước, với địa
phương. Đền thờ Tiến sỹ Doãn Khuê là một di tích lịch sử văn hóa quý giá mà ông
cha ta để lại như một sự tri ân, trả nghĩa với người mở đất năm nào. Tại đây
ông được nhân dân tôn thờ với tư cách là Thần Hoàng Làng. Ngày 20 tháng 7 năm
1994 ngôi đền được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng Di tích lịch sử văn
hóa cấp Quốc gia, đó là bằng chứng ghi nhận công đức Danh nhân. Từ đó đến nay
Đảng bộ, nhân dân xã Nghĩa Thành cùng với cán bộ, giáo viên và học sinh trường
THCS Doãn Khuê thường xuyên phát tâm công đức sức người, sức của để trùng tu,
tôn tạo, chăm sóc khu di tích ngày càng khang trang và cổ kính.
2.2. Nhân vật được thờ
Tiến sĩ Doãn Khuê tên tự là Bảo Quang, sinh ngày
15 tháng 10 năm 1813 trong một gia đình có truyền thống hiếu học tại Vũ Thư
(Thái Bình). Thân phụ ông vốn là người thanh liêm, cương trực nên mặc dù học
giỏi nhưng cụ vẫn không đi thi mà ở nhà dạy học.
Năm Doãn Khuê 11-12 tuổi thì cha mẹ lần lượt qua
đời. Trước mất mát lớn lao ấy ông vẫn không sao nhãng việc học hành vì vậy khoa
thi năm Mậu Tuất (1838) ông là một trong 8 người đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ (tên
ông được ghi trên bia đá dựng tại Văn Miếu Huế).
Sau khi đỗ đạt ông được bổ chức: Hàn lâm viện
biên tu. Ngay năm sau ông được thăng Tri phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông. Cuối năm
1842 ông được bổ chức Giáo thụ Xuân Trường. Nhậm chức chưa được bao lâu ông lấy
cớ bệnh nặng cáo quan về nhà dạy học.
Năm 1854, Doãn Khuê được Hoàng giáp Tam Đăng
Phạm Văn Nghị cắt tặng cho vùng đất phía đông tại Sĩ Lâm thuộc bãi sa bồi
bờ biển Đại An (còn gọi là ấp Một). Ông đã cùng con trai chiêu tập dân nghèo về
đây khai hoang mở đất, xin miễn thuế cho dân rồi cho lập kho “nghĩa thương”
giúp người nghèo đói.
Sau gần 20 năm vật lộn với thiên nhiên cải tạo
đồng ruộng, đến năm 1872 cả một vùng đất trù phú như: Chí Thiện, Thư Điền, Tây
Thành đã được hình thành. Công lao ấy trước tiên thuộc về Tiến sĩ Doãn Khuê,
người khởi xướng và trực tiếp giúp dân khai hoang lấn biển, tạo dựng làng xã.
Ngày 1
tháng 9 năm 1858 khi tiếng súng xâm lược của thực dân Pháp nổ trên bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) thì ý tưởng cứu nước giúp dân của ông đã trở thành hành động cụ
thể. Ông không ủng hộ việc triều đình nghị hòa với Pháp mà đứng hẳn về phe chủ
chiến. Cũng trong thời gian này ông đã thay Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị
giữ chức Đốc học Nam Định. Đối với Tiến sĩ Doãn Khuê, giữ chức Đốc học lúc này
không chỉ góp phần đào tạo nhân tài mà ông còn đi khắp các huyện trong tỉnh
cũng như một số tỉnh lân cận kêu gọi các sĩ phu yêu nước làm sớ tấu lên triều
đình chém đầu 2 tên phản quốc đã ký hiệp định bán các tỉnh Nam Kỳ cho Pháp và
xin đem quân tham gia chống Pháp giành lại các tỉnh này.
Với 40 năm làm quan, ông là người nổi tiếng
khẳng khái, chính trực, đã 3 lần xin từ chức vì khuyên can vua và hiến kế chống
Pháp mà không được chấp thuận. Ông đã lãnh đạo các sĩ phu, thân hào vùng Nam
Định, Hưng Yên tổ chức lực lượng vũ trang chống Pháp khi chúng xâm lược Bắc Kỳ
lần thứ nhất. Nhiều học trò của ông cũng tham gia phong trào yêu nước chống
thực dân một cách kiên cường, trong đó có Hoàng giáp Nguyễn Quang Bích đã được
ghi danh bằng một tên phố của Thủ đô Hà Nội.
Chính vì những công lao ấy, sau khi ông mất,
người dân thôn Thư Điền, xã Nghĩa Thành đã lập đền thờ để các thế hệ sau mãi
mãi tri ân.
2.2. Kiến trúc, điêu khắc
Ngôi đền nằm phía bắc thôn Thư Điền, xung quanh
là cánh đồng lúa, bên cạnh là con đường giao thông rộng rãi nên việc đi lại hết
sức thuận tiện. Hệ thống nghi môn đều có bốn cột đồng trụ được tạo gờ chỉ, giữa
có câu đối nổi ca ngợi công lao của Tiến sĩ Doãn Khuê:
Đánh Pháp trừ gian, yêu nước trung tâm ngời sử sách
Dựng
điền lập ấp, thương dân nghĩa khí sáng làng thôn.
Qua cổng vào đến một sân gạch rộng, bên phải là
nhà giải vũ gồm 5 gian làm bằng gỗ chạm khắc đơn giản mái lợp ngói nam, đằng
sau và hai đầu hồi xây bít đốc.
Đền thờ Tiến sĩ Doãn Khuê gồm 3 tòa xây liền
nhau theo kết cấu “trùng thiềm”. Tòa tiền đường 5 gian, hệ thống cột vuông xây bằng
gạch gánh đỡ toàn bộ vì kèo, xung quanh có tường bao với 5 cửa ra vào phía
trước xây cuốn để thông với ngoài hiên.
Tòa trung đường và chính tẩm cũng xây tường chịu
lực như tiền đường, trần xây cuốn vòm. Các cột trụ được xây nhô ra để đỡ hệ
thống mái, mặt ngoài đắp nổi câu đối chữ Hán.
Tại đây hàng năm còn diễn ra những lễ hội truyền
thống và sinh hoạt văn hóa dân gian. Ngoài hội xuân được tổ chức trọng thể quy
mô lớn, vào những ngày sinh 15 tháng 10 cũng như ngày mất 2 tháng 10 của Tiến
sĩ Doãn Khuê cũng được nhân dân tổ chức tế lễ trọng thể.
3. Lễ
hội đền thờ Doãn Khuê ở xã Nghĩa Thành, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.
3.1. Nguồn gốc ra đời lễ hội
Tiến sỹ Doãn Khuê đỗ Đệ tam giáp tiến sĩ xuất thân (đứng thứ tám).
Năm 1863, khi làm Chánh sứ Hải phòng sứ (tức là Tư lệnh Biên phòng vùng duyên
hải Bắc bộ) kiêm Đốc học Định An (tỉnh Nam Định và Hưng Yên) Ông đã khuyến khích đấu tranh phản đối hòa ước giữa
Triều đình ký với Pháp. Vì việc này mà Ông bị bãi chức Hải phòng sứ và giáng xuống bốn cấp. Ông xin cáo bệnh từ
quan nhưng năm 1867, Ông lại được đề cử làm Thương biện Hải phòng tỉnh Nam Định
(tức là Đô đốc hải quân). Với uy tín từng là Đốc học Định An và Hải
phòng sứ, Doãn Khuê đã có những hoạt động tích cực trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược lấn thứ nhất. Ông cùng một số sỹ phu như Phạm Văn Nghị,
Đỗ Mậu Kiến ... tổ chức các đội nghĩa dũng và trực tiếp chỉ huy một số trận
đánh góp phần tiêu hao lực lượng và đẩy lùi nhiều đợt tấn công bằng
đường thủy của quân Pháp từ biển đánh vào và từ
Hà Nội đánh xuống
Sáu mươi lăm tuổi đời, bốn chục năm làm quan, ông đã trải qua
gần trọn bốn đời vua đầu triều nhà Nguyễn. Tiến sĩ Doãn Khuê đã dồn hết tâm
nguyện cho việc canh tân đất nước. Nhưng hoạn lộ của ông cũng lắm chông gai chắc
chở, với một lòng yêu nước, thương dân, tính tình ngay thẳng, ông đã mấy lần bị
cách lưu, giáng chức, cao hơn nữa là miễn chức, có lúc phải từ quan, trước thực
tế quan trường ức hiếp dân chúng, còn Triều đình thì làm ngơ, tự mình thấy có
trách nhiệm nhưng bất lực. Nhưng cuối cùng dưới thời Tự Đức cũng đã ban phong
thẻ bài Quý tự Hiếu Nghĩa.Sự nghiệp giáo dục của Tiến sỹ Doãn Khuê luôn được
tôn vinh, đề cao. Ông là một thầy giáo đầy tâm huyết và trách nhiệm. Qua gia phả
mới biết Doãn Khuê xuất thân từ một dòng họ có truyền thống dạy học. Trước ông
đã có 8 đời làm nghề thầy giáo. Những năm cuối đời, Doãn Khuê dồn hết tâm lực
vào công việc dạy học. Trong thời gian dài hơn 10 năm (1847 - 1857) Doãn Khuê
đã trực tiếp đào tạo nhiều môn sinh có tài năng và nhân cách ra giúp dân, giúp
nước. Đồng thời ông cùng con, cháu, các cố lão địa phương từng bước xây dựng
quê hương ta trở thành một địa bàn nông nghiệp trù phú, giàu văn hiến.
Để tưởng nhớ công ơn của tiến sĩ Doãn
Khuê nhân dân xã Nghĩa Thành đã lập đền
thờ ông, hương khói phụng thờ hàng trăm năm nay với niềm kính trọng và biết ơn
sâu sắc với một ông tổ đã khai phá, xây dựng nên mảnh đất trù phú này. Hàng năm
cứ vào ngày 19 tháng Giêng nhân dân
Nghĩa Thành lại tổ chức lễ hội ở đền thờ để tưởng nhớ người đã có công lao to lớn
đối với mảnh đất quê hương.
3.2. Tiến trình lễ hội
Lễ hội truyền thống đền thờ Doãn Khuê bao gồm phần
lễ và phần hội đan xen vừa trang trọng, tôn nghiêm vừa rộn ràng.
3.2.1.
Phần lễ
Lễ mở cửa đền
Vào chiều 17 tháng Giêng hàng năm, các cụ cao niên, đại diện
cho UBND xã và nhân dân tiến hành lễ mở cửa đền. Nội dung của phần lễ là dâng
hương xin phép các vị thần để cho nhân dân dọn dẹp đền, chuẩn bị cho lễ hội và chứng giám cho lòng thành kính của nhân dân.
Nghi thức lễ mở cửa đền được bắt
đầu với lễ mộc dục và cúng thức. Lễ mộc dục được một vị cao niên trong xã đảm
nhiệm trong trang phục lễ hội truyền thống, đầu đội khăn xếp, quần trùng, áo
dài, chân đi hài vân sảo, tất cả đều màu đỏ. Nước làm lễ mộc dục phải là nước
mưa tinh khiết nấu với ngũ vị hương. Trước khi làm lễ, vị cao niên tiến hành rửa
tay (gọi là quán tẩy), vẩy nước hoa vào người, xoa lên mặt, đầu và hai tay (gọi
là tẩy uế). Sau khi làm lễ mộc dục cho cụ, các đồ mã cũ đem đốt, dâng đồ mới.
Lễ mộc dục xong là đến lễ cúng
thức, ông chủ tế đọc chúc văn, nội dung ca ngợi công đức của cụ Doãn Khuê đối với nhân dân miền hạ Nghĩa Hưng, cầu xin
hồng ân của trời đất, phật, thánh, cụ ban phúc lành cho quốc thái, dân an.
Lễ Kì
An
Như thông lệ nhiều năm nay, chiều ngày 18
tháng Giêng tại đền thờ Doãn Khuê ở Nghĩa Thành – Nghĩa Hưng – Nam Định lại tổ
chức lễ Phật cầu an cho toàn thể nhân dân miền hạ Nghĩa Hưng.
Đầu giờ chiều nhân dân cán bộ, lãnh đạo
UBND xã Nghĩa Thành và một số xã lân cận trong vùng đã có mặt để chuẩn bị tham
dự buổi lễ do nhà sư chủ trì. Mọi người đến để cầu mong an khang thịnh vượng
cho đất nước; sám hối tội lỗi, dứt trừ nghiệp chướng, tránh mọi bệnh hoạn, tai
họa, nghiệp báo, thành đạt và may mắn cho bản thân và nhất là để tỏ sự tưởng nhớ
thành kính đến ông bà tổ tiên.
Chính hội
Khai hội được tổ chức vào ngày 19 tháng
Giêng. Trong ngày hôm đó, diễn ra các hoạt động: Khai mạc lễ hội, lễ tế và dâng
hương. Đặc biệt, lễ rước Thành Hoàng từ UBND xã Nghĩa Thành rước về đền thờ cụ
Doãn Khuê. Tham gia đoàn rước có các đội cờ lễ, múa lân, múa rồng, Hội kèn đồng,
Hội trống, bài vị, đội khiêng kiệu hoa, khiêng kiệu cụ Doãn Khuê. Lễ rước kiệu
diễn ra trong tiếng nhạc bát âm dịu dàng, du dương, trầm bổng. Âm vang là những
giai điệu hùng tráng của Hội kèn đồng, Hội trống. Kiệu cụ đi đến đâu, dân làng
và du khách thập phương chen nhau chui qua gầm kiệu để nguyện cầu mọi ước muốn
của họ sẽ thành hiện thực. Sau nghi lễ rước truyền thống đó, nhân dân, du khách
tổ chức lễ dâng hương, lễ tế ôn lại cuộc đời và công lao của cụ Doãn Khuê đối với
nhân dân địa phương và đất nước.
Điểm nổi bật trong lễ là phần tế do đội tế
trong xã thực hiện. Lễ tế bao gồm 7 tuần: Dâng hương, dâng hoa, dâng đăng, dâng
tửu, dâng trà, dâng quả và dâng thực.
Tiến trình lễ tế:
Tuần
1: Dâng hương
Xướng:
“Nam mô hiến phụng kiến
Nam
mô dâng phụng kiến
Nam mô hương tiến cúng”
Họa: Hiến hương
“Ngày khách hội hai thôn thông báo
Gió Đông về ngào ngạt mùi hương
Nhân dân trăm họ dâng hương
Thỉnh cầu cụ xót thương chứng đàn.
Con quỳ dâng nén hương thơm
Lạy xin đức thánh xót thương chứng
đàn”.
Tuần
2: Dâng hoa
Xướng:
Nam mô hoa phụng kiến
Nam mô hoa tiến cúng
Họa:
“Hoa thơm ngát con quỳ dâng lễ
Cụ giáng thế chứng minh
Long thành dâng đóa hoa xinh
Thỉnh cầu cụ anh minh chứng đàn”.
Tuần
3: Dâng đăng.
Xướng:
“Nam mô đăng phụng kiến
Nam
mô đăng tiến cúng”.
Họa:
“Đuốc thiêng thành dâng lên cụ
Ngọn đinh đăng soi thấu mười phương
Biên quang tỏa ánh minh vương
Cầu xin cụ xót thương chứng đàn”.
Tuần
4: Dâng tửu
Xướng:
“Nam mô đăng phụng kiến
Nam
mô đăng tiến cúng”.
Họa:
“Rượu bạch liên mấy tuần sen cúc
Tửu tam tuần tiền tiến trước kính dâng
Dâng lên cụ ấm tam tuần
Các đệ tử kính dâng lên ngự”.
Tuần
5: Dâng trà
Xướng:
“Nam mô trà phụng kiến
Nam mô trà tiến cúng”.
Họa:
“Con cung kính dâng thảy trong thơm
ngát
Nhớ đến ngày bát nguyện hàm liên
Chè ché ngọc xinh xinh
Lạy xin cụ xót thương chứng tình”.
Tuần
6: Dâng quả
Xướng:
“Nam mô trà phụng kiến
Nam
mô trà tiến cúng”.
Họa:
“Quả tươi xanh đậm đà cung kính
Con quỳ dâng thỉnh cụ
Điểm minh phủ khắp gần xa
Trừ tà sát quỷ muôn dân phụng thờ”.
Tuần
7: Dâng thực
Xướng:
“Nam mô thực phụng kiến
Nam
mô thực tiến cúng”.
Họa:
“Con cung kính dâng ngọc thực
Vật trời ban thơm nức mùi hương
Lạy xin cụ người thương
Anh minh xin hãy độ lượng chứng cho
lòng thành”.
3.2.2. Phần hội
Trong những ngày
diễn ra lễ hội cùng với các hoạt động tế, lễ đặc sắc được bảo lưu từ hàng trăm
năm nay thì phần hội diễn ra các hoạt động như: đánh cờ người, chơi đu, chọi
gà, giải thế cờ, kéo co, leo cầu tre, đấu vật, trò chơi vừa chạy vừa sỏ kim...
và các hoạt động văn nghệ khác.
Chơi cờ người
Chơi cờ người là thú vui của dân ta ngày
xưa, thực chất là chơi cờ tướng. Đây là cuộc thử sức, thử tài, thử trí thông
minh, nhạy bén của người chơi cờ. Ngày nay trò chơi này vẫn được lưu truyền và
được người dân ở đây hưởng ứng rất đông, không chỉ các cụ già, mà cả thanh niên
nam nữ cũng rất thích trò chơi này. Ở lễ hội, trò chơi đánh cờ người được mọi
người hưởng ứng rất sôi nổi. Việc chọn người ngồi bàn cờ cũng được 88cân nhắc
kĩ lưỡng, chọn người chơi phải đủ tiêu chuẩn, lại phải có hình thức để ngồi vào
bàn cờ. Bàn cờ là một khoảng sân đất được kẻ bằng vôi trắng như bàn cờ tướng. Một
bàn cờ người gồm 32 người (nữ tú) đóng quân đỏ, quân đen, tướng ông và tướng
bà, mỗi quân cờ ngồi trên một chiêc ghế con, bên ngoài có một người đánh trống,
một người phất cờ và hai đối thủ. Quân cờ làm bằng gỗ, có cán dài do các cô gái
trẻ trong làng cầm, họ mặc quần áo chỉnh tề bằng sa tanh, áo dài thắt đai lưng
xanh, đỏ (hai đội hai màu khác nhau), trên đầu đội mũ tượng trưng cho quân cờ
như mũ rồng tướng ông, mũ phượng của tướng bà, mũ cánh chuồn của các con Sĩ,
trên ngực áo của họ còn in chữ Nho. Các quân cờ Xe, Pháo, Mã được viết thành chữ
trên mũ ống và trên ngực áo, các quân thì mặc quàn chẽn, áo thắt đai lưng như
lính, ngực áo viết chữ Tốt bằng chữ Nho màu đen, màu đỏ. Từ vài hôm trước đã có
cuộc thi chon tướng ông, tướng bà, người được chọn thường là hai cô gái xinh đẹp,
nết na, thông minh nhất vùng, nhà không có tang trở. Mỗi bên bàn cờ đều có người
đội khăn mỏ rìu, thắt lưng đai, đánh trống khẩu đi theo người chơi cờ. Thường
các cuộc đấu diễn ra giữa các làng, xã với nhau chỉ một ván, giữa tứ xã sẽ chon
ra đội nhất, kết cuộc được thông báo cho toàn dân biết, ngôi vị được lưu danh đến
kỳ lễ hội năm sau.
Leo
cầu ngô
Xưa người ta trồng ở phần nền đất vườn trụ
tre vững trãi, giữa hai trụ nối với nhau bằng một đoạn tre trên đó để một cây
Luồng thẳng dài khoảng 10m, nối dưới ao với một trụ vững trãi bằng một sợi dây
để treo cây Luồng, ở đây có treo thưởng các phần quà khác nhau. Đây là trò chơi
được các nam thanh đua nhau trổ tài, rất nhiều nam thanh rơi xuống nước ướt
sũng khi chỉ cách phần quà trong một bước chân. Ngày nay để mọi người, mọi lứa
tuổi đều được thể hiện tài năng khéo néo của mình Người ta trồng Cầu ngô trên một
nền đất phẳng ở ngay cạnh miếu Tiên Công. Thi leo Cầu ngô rất hấp dẫn thanh
niên nam nữ, mọi lứa tuổi đều được tham gia do vậy trong cuộc thi tiếng reo hò
rất náo nhiệt.
Chọi gà
Đây là một hoạt động khá náo nhiệt trong hội,
vùng tứ xã xưa kia có những gia đình nuôi gà chọi rất giỏi, họ chuyên cung cấp
giống gà chọi cho ngày hội nên trò chọi gà ở đây diễn ra rất sôi nổi. Tham gia
trò chơi này chủ yếu là đàn ông, nhưng cũng có khá nhiều nữ thanh niên cũng
tham gia hưởng ứng và cổ vũ. Những người tham gia trò chọi gà cũng đánh cá cược
được thua với nhau và điều luôn luôn hồi hộp với họ là không thể dự đoán hết được
những may rủi có thể đến với những chú gà của họ. Vì vậy, đối với mọi người, chọi
gà trong ngày hội là trò chơi hấp dẫn nhất và lý thú nhất.
Kéo co
Diễn ra khá sôi động bởi tiếng hò reo, trống
thúc. Kéo co thường diễn ra giữa các đội đại diện cho các làng. Mỗi đội gồm 10
người, có cả nam và nữ.
Các hoạt động văn nghệ
Sân đền diễn ra các tiết mục văn nghệ do chiếu
chèo của địa phương biểu diễn các vở kịch như: “Nghĩa Hưng đất mẹ anh hùng”, “Quan âm Thị Kính”, “Phạm Công Cúc Hoa”,
“Ông thuyền chài”,… các làn điệu quan
họ, điệu chèo,…. Mặc dù là những nghệ sĩ không chuyên, thường ngày họ là những
người nông dân chân chất, thế nhưng khi
đã hóa thân vào các nhân vật, họ lại trở thành những “nghệ sĩ” cống hiến hết mình phục vụ nhân dân.
3.3. Nét đặc trưng và ý nghĩa văn hóa truyền thống
lễ hội đền thờ Doãn Khuê
Nghĩa Hưng là vùng đất nông nghiệp trồng
lúa nước rộng lớn chính vì thế mà nhiều hoạt động, sinh hoạt nơi đây mang đậm
tính chất văn hóa vùng đồng bằng được thể hiện đậm nét như: kéo co, leo cầu ngô,
chơi cờ người, chọi gà,…
Những nghi thức trong lễ hội cũng mang đậm
màu sắc “Tam giáo”: Phật giáo, Nho
giáo và Đạo giáo. Những nghi thức của lễ hội được bảo tồn và phát triển mang đậm
màu sắc văn hóa dân tộc.
Điểm đặc biệt của nhân dân miền hạ Nghĩa
Hưng là sự hòa hợp giữa các tôn giáo: Phật Giáo và Thiên chúa giáo. Trong lễ hội,
tất cả nhân dân đều tham dự không phân biệt “lương
– giáo” điều đó đã góp phần thể
hiện rõ nét tính cố kết cộng đồng trong văn hõa làng xã Việt Nam.
Lễ hội đền thờ Doãn Khuê là dịp để nhân
dân tưởng nhớ đến công lao của các vị tiền nhân đã có công khai phá vùng đất miền
hạ Nghĩa Hưng. Đây là biểu hiện của nét đẹp văn hóa “Uống nước nhớ nguồn” của người Việt. Mặt khác, những trò chơi, những
nghi thức của lễ hội cũng đều mang đậm tính truyền thống. Lễ hội đền thờ Doãn
Khuê đã góp phần làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Đó là những nét
văn hóa truyền thống của Lễ hội truyền thống 19 tháng Giêng hàng năm của địa
phương xã Nghĩa Thành.
Từ khi ra đời đến nay, năm tháng qua đi biết
bao đổi thay, biến cố, nhưng nhìn chung lễ hội này vẫn giữ được những giá trị
văn hóa truyền thống cơ bản. Đặc biệt từ năm 1994 được công nhận là di tich cấp
quốc gia, lễ hội đền thờ Doãn Khuê ngày càng được trú trọng và được nhân dân,
du khách thập phương biết đến nhiều hơn, chính quyền xã, chính quyền huyện cũng
quan tâm nhiều hơn cả về mặt tổ chức lễ hội và xin kinh phí, xin tài trợ.
Lễ hội luôn duy trì tổ chức mỗi năm một lần.
Phần lễ vẫn đầy đủ các nghi thức, nghi lễ cúng tế, rước kiệu…trong không khí
trang nghiêm và linh thiêng nhưng vẫn không thiếu phần sôi động, vui tươi trong
phần hội với nhiều tiết mục đặc sắc do các
chiếu chèo địa phương thể hiện và một số trò chơi dân gian mang đậm văn hóa
truyền thống như: kéo co, chọi gà, chơi cờ người…lễ hội vẫn gữi được nét đặc
trưng văn hóa của mình và không bị biến tướng, ảnh hưởng từ bên ngoài.
Lễ hội luôn có sự tham gia đông đúc của
nhân dân trong vùng và du khách thập phương, từ mọi lứa tuổi và mọi tầng lớp.
Ban sưu tầm